Phân loại Linh dương đầu bò

Phân loại và tiến hóa

Linh dương đầu bò với danh pháp Connochaetes, được xếp vào gia đình họ trâu bò và phân họ Alcelaphinae, loài họ hàng gần nhất của nó là (Alcelaphus), Linh dương Hirola (Beatragus hunteri), và các loài trong chi Damaliscus như linh dương topi, linh dương Damaliscus lunatus, linh dương mặt trắnglinh dương đồng cỏ Nam Phi.[1] Cái tên Connochaetes được đặt bởi nhà động vật học người Đức Hinrich Lichtenstein vào năm 1812.[1][2]

Những người định cư Hà Lan lần đầu tiên "phát hiện" ra loài linh dương đầu bò vào khoảng năm 1700, trên đường họ đến vùng nội địa Nam Phi. Do giống với gia súc hoang dã, họ gọi chúng là "bò hoang" hay "linh dương đầu bò". Linh dương đầu bò xanh đầu tiên được người phương Tây biết đến ở phía bắc Nam Phi một thế kỷ sau đó, vào những năm 1800.[3]

Vào đầu thế kỷ 20, một loài linh dương đầu bò là C. albojubatus, đã được xác định ở miền đông châu Phi. Năm 1914, hai loài của linh dương đầu bò đã được giới thiệu, đó là Gorgon a. albojubatus ("linh dương râu trắng Athi") và G. a. mearnsi ("linh dương râu trắng Loita"). Tuy nhiên, vào năm 1939, hai loài lại một lần nữa được hợp nhất thành một loai duy nhất, Connochaetes taurinus albojubatus. Vào giữa thế kỷ 20, hai hình thức riêng biệt đã được công nhận, Gorgon taurinus hecki và G. t. albojubatus.[3] Cuối cùng, phân thành hai loại linh dương đầu bò khác nhau - linh dương đầu bò xanh và đen. Linh dương đầu bò xanh đầu tiên được đặt dưới một chi riêng biệt, Gorgon,[4][5] trong khi linh dương đầu bò đen thuộc chi Connochaetes. Ngày nay, chúng hợp nhất trong chi đơn Connochaetes, với linh dương đầu bò đen được đặt tên (C. gnou) và linh dương đầu bò xanh (C. taurinus).[1]

Theo phân tích DNA ty thể, linh dương đầu bò đen dường như đã tách khỏi loài chính trong thời kỳ Trung Pleistocene và trở thành một loài khác biệt khoảng một triệu năm trước.[6] Một tỷ lệ phân kỳ đã được tính toán là khoảng 2%.[5] Sự phân chia dường như không bị thúc đẩy bởi sự cạnh tranh về thức ăn, mà bởi vì mỗi loài đã sử dụng một hốc sinh thái khác nhau và chiếm bậc dinh dưỡng khác nhau.[7]

Hóa thạch linh dương đầu bò xanh có niên đại từ khoảng 2,5 triệu năm trước là phổ biến và phân bố rộng hơn. Chúng đã được tìm thấy trong các hang động hóa thạch tại Cái nôi của nhân loại ở phía bắc thành phố Johannesburg. Ở những nơi khác ở Nam Phi, hóa thạch của chúng rất phong phú tại các địa điểm như Elandsfontein, Cornelia và Florisbad.[8] Hóa thạch cổ nhất của linh dương đầu bò đen được tìm thấy trong lớp đá trầm tích ở Cornelia ở Nhà nước Tự do Orange có niên đại khoảng 800.000 năm.[7] Ngày nay, năm phân loài của linh dương đầu bò xanh được công nhận, trong khi linh dương đầu bò đen không có phân loài nào được đặt tên.[9][10]

Di truyền và giống lai

Số lượng nhiễm sắc thể ở linh dương đầu bò là 58 cặp.[11] Nhiễm sắc thể được nghiên cứu ở một con linh dương đực và một con linh dương cái. Trong con cái, tất cả ngoại trừ một cặp rất lớn nhiễm sắc thể submetacentric đã được tìm thấy là acrocentric. Nghiên cứu Kỳ giữa của nhiễm sắc thể của con đực, và nhiễm sắc thể bán cầu lớn cũng được khám phá ra tương tự như ở con cái cả về kích thước và hình thái. Các nhiễm sắc thể khác là acrocentric. Nhiễm sắc thể X là một acrocentric lớn và nhiễm sắc thể Y thì nhỏ.[2][12]

Hai loài linh dương đầu bò được biết là loài lai. Linh dương đầu bò đen đực đã được báo cáo là giao phối với con cái của linh dương đầu bò xanh và ngược lại.[13] Sự khác biệt trong hành vi xã hội và môi trường sống trong lịch sử đã ngăn chặn sự lai tạo giữa các loài, nhưng sự lai giống có thể xảy ra khi cả hai loài bị giam trong cùng một khu vực. Kết quả là con cái thường sinh sản. Một nghiên cứu về những động vật lai này tại Khu bảo tồn thiên nhiên đập Spioenkop ở Nam Phi cho thấy nhiều con lai có những đặc điểm bất thường bất lợi liên quan đến răng, sừng và xương khâu của hộp sọ.[14] Một nghiên cứu khác báo cáo sự gia tăng kích thước của con lai so với bố mẹ của nó. Ở một số động vật, phần nhĩ của xương thái dương bị biến dạng cao, và ở những con khác, xương quayxương trụ hợp nhất với nhau.[15]

Đặc điểm của loài

Linh dương đầu bò
Linh dương đầu bò xanh
Linh dương đầu bò đen

Cả hai loài linh dương đầu bò là động vật móng guốc và sừng màu nâu xám giống như gia súc. Con đực có kích thước lớn hơn con cái và cả hai đều có thân hình phía trước nặng nề hơn so với phần thân sau. Chúng có mõm rộng, mũi Roman, bờm và đuôi xù xì.[16] Sự khác biệt hình thái nổi bật nhất giữa linh dương đầu bò đen và xanh là màu lông, hướng và độ cong của sừng. Linh dương đầu bò xanh là loài lớn nhất trong hai loài. Ở con đực, linh dương đầu bò xanh cao 150 cm và nặng khoảng 250 kg, trong khi linh dương đầu bò đen cao từ 111 đến 120 cm[17] và nặng khoảng 180 kg. Ở con cái, linh dương đầu bò xanh có chiều cao 135 cm và nặng 180 kg trong khi con linh dương đầu bò đen cao 108 cm và nặng 155 kg. Sừng của linh dương đầu bò xanh nhô ra một bên, cong dần xuống trước khi cong ngược về phía hộp sọ, trong khi sừng của linh dương đầu bò đen cong về phía trước, hướng xuống dưới trước khi cong lên trên. Linh dương đầu bò xanh có một màu xám đen với các sọc và có màu xanh nhạt trên toàn thân. Linh dương đầu bò đen có lông màu nâu, bờm có màu kem đến đen và đuôi màu kem. Linh dương đầu bò xanh sống trong nhiều môi trường sống khác nhau, bao gồm cả rừng và đồng cỏ, trong khi linh dương đầu bò đen có xu hướngchỉ sống ở các khu vực đồng cỏ mở[9] Ở một vài nơi, linh dương đầu bò xanh di cư qua những khoảng cách xa để trú đông, trong khi linh dương đầu bò đen thì không.[18] Sữa của con cái thuộc loài linh dương đầu bò đen có chứa protein cao hơn, chất béo thấp hơn và hàm lượng đường trong sữa thấp hơn sữa của linh dương đầu bò xanh.[19] Linh dương đầu bò có thể sống hơn 40 năm, mặc dù tuổi thọ trung bình của chúng là khoảng 20 năm.[20]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Linh dương đầu bò http://www.zora.uzh.ch/id/eprint/25325/2/D_Codron.... http://www.discoverafrica.com/herdtracker/ http://www.maasaimara.com/entries/great-wildebeest... http://animals.nationalgeographic.com/animals/mamm... http://www.nationalgeographic.com/animals/mammals/... http://www.departments.bucknell.edu/biology/resour... http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/account... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/1795096 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/19426824 //hdl.handle.net/2263%2F19462